Nội soi là một kỹ thuật được sử dụng rất phổ biến, hỗ trợ trong chẩn đoán bệnh. Nội soi ống mềm từng được xếp vào nhóm thiết bị y tế “bán thiết yếu” trong thời gian dài và việc tái xử lý thiết bị này theo quy trình của thiết bị “bán thiết yếu” đã làm tăng nguy cơ lây truyền các tác nhân gây bệnh, đặc biệt là sự lây truyền các vi sinh vật đa kháng thuốc. Đã đến lúc điều này cần phải được thay đổi …
Hằng năm chỉ tính riêng tại Mỹ đã có khoảng 18 triệu ca nội soi ống tiêu hóa. Ống nội soi được trang bị một camera siêu nét, cho phép ghi lại hình ảnh 3-D giúp hỗ trợ chẩn đoán. Suốt 50 năm qua, theo hướng dẫn của chính phủ, các thiết bị nội soi chỉ cần khử trùng sau khi làm sạch thì đã có thể tái sử dụng. Tuy nhiên, có lẽ đã đến lúc điều này cần phải được thay đổi.
Theo lý thuyết, khử trùng mức cao sẽ loại bỏ tất cả các vi sinh (trừ một ít bào tử vi khuẩn) bên trong thiết bị nội soi. Tuy nhiên, các phân tích lặp lại đã chỉ ra khoảng 30% các thiết bị nội soi (đặc biệt là nội soi tá tràng) sau khi được làm sạch và khử trùng vẫn bị nhiễm một số lượng đáng kể mầm bệnh. Trong vài năm gần đây, có nhiều báo cáo về việc bệnh nhân bị nhiễm trùng, thậm chí tử vong do mầm bệnh trong ống nội soi bị nhiễm bẩn.
Theo nghiên cứu của Đại học Johns Hopkins (2018) công bố trên tạp chí GUT, trong 15 triệu ca nội soi đại tràng hằng năm tại Mỹ, cứ khoảng 1.000 bệnh nhân thì có 1 người bị nhiễm bệnh, thậm chí trong nội soi phế quản thì tỷ lệ nhiễm bệnh còn cao hơn, đạt 16 trong 1.000 người.
- – GUT là tạp chí chính thức của Hiệp hội tiêu hóa ở Anh.
Cori Ofstead đã công bố trên tạp chí CHEST nghiên cứu về tình hình nhiễm bẩn ống nội soi phế quản tại 3 bệnh viện, cô ấy đã nhận thấy 100% các ống nội soi được đánh giá đều có tồn dư nhiễm bẩn sau khi làm sạch bằng phương pháp thủ công. Khoảng 58% ống nội soi phế quản sau khi tái xử lý cho thấy vẫn có vi sinh vật sinh trưởng, trong đó có cả nấm mốc.
- – Cori Ofstead là CEO của tập đoàn Ofstead & Associates ở Mỹ
- – CHEST là tạp chí chính thức của Trường cao đẳng y sĩ lồng ngực ở Mỹ (ACCP)
Tỷ lệ ống nội soi bị nhiễm bẩn trong thực tế có thể còn cao hơn con số trên. Rất khó để phát hiện mầm bệnh một cách nhanh chóng và chính xác vì phương pháp giám sát không đầy đủ cũng như có khoảng thời gian dài từ lúc dụng cụ bị nhiễm bẩn cho đến lúc gây nhiễm trùng.
“Để giảm thiểu rủi ro, hầu hết các trung tâm nội soi đã nâng cấp quy trình tái xử lý bằng cách lặp lại khử trùng mức cao” – William A. Rutala nhận xét. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ ra việc này cũng không làm giảm mức độ nhiễm bẩn của thiết bị. Vấn đề chủ yếu là do bàn chải cũng như hóa chất không phải lúc nào cũng đến được các vị trí khó tiếp cận, dù đã trải qua 2 lần làm sạch.
- – William A. Rutala là giáo sư y khoa tại trường đại học y khoa ở Bắc California (UNC) và cũng là giám đốc chương trình toàn tiểu bang về kiểm soát nhiễm trùng và dịch tễ học (SPICE).
Năm 1968, tiến sĩ Earle Spaulding đã phân loại cách khử trùng các vật dụng dựa trên mục đích sử dụng. Theo quy trình (protocol) của tiến sĩ Spaulding, nhóm “bán thiết yếu” gồm các dụng cụ tiếp xúc với niêm mạc lành lặn; các dụng cụ này cần được khử trùng mức cao sau khi làm sạch. Nhóm “thiết yếu” gồm các dụng cụ thâm nhập vào vùng mô vô trùng, hệ thống mạch máu hoặc qua vùng có máu chảy; và các dụng cụ này cần phải tiệt trùng sau khi làm sạch.
Cần lưu ý rằng nhiều công cụ được sử dụng trong thiết bị nội soi hiện nay nếu xét theo phân loại của Spaulding phải được liệt vào nhóm “thiết yếu”. Sự thiếu đồng bộ giữa ống nội soi với các công cụ đi kèm đã làm nảy sinh vấn đề, công cụ “thiết yếu” lại xử lý theo quy trình “bán thiết yếu”.
Giờ đây chúng ta đã rõ hơn về thách thức và nguy cơ về việc tái xử lý ống nội soi; đồng thời cách duy nhất để ngăn chặn sự nhiễm bẩn này là phải làm minh bạch phân loại của Spaulding. Rutala khuyến cáo các thiết bị phức tạp thâm nhập trực tiếp hoặc gián tiếp vào các vùng mô vô trùng hoặc hệ thống mạch máu, chẳng hạn như các ống nội soi phế quản, bàng quang, tá tràng, … cần được liệt vào nhóm “thiết yếu” và phải được tiệt trùng. Bằng chứng cho thấy khử trùng mức cao các thiết bị nội soi là thiếu an toàn, trong khi đó tiệt trùng đã được chứng minh có thể làm giảm đáng kể vi sinh vật nhiễm bẩn.
Rutala cũng lưu ý rằng “Năm 1992, FDA đã bắt buộc chuyển đổi tay khoan nha khoa từ khử trùng thành tiệt trùng … dù chẳng có tài liệu về trường hợp truyền bệnh nào liên quan đến dụng cụ này.” Ngược lại, dữ liệu nhiễm trùng do nội soi là quá nhiều và không thể chối cãi. Năm 2015, FDA đã khuyến cáo nên khử trùng trong nội soi tá tràng. Tuy nhiên hướng dẫn trong quy trình tái xử lý vẫn chưa thay đổi. Để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân, việc chuyển đổi từ khử trùng mức cao sang tiệt trùng đối với tất cả các thiết bị nội soi là rất quan trọng.
Vì thế, Rutala khuyến nghị các chuyên gia, các tổ chức như SHEA, APIC, SGNA, ASGE và AMNI cũng như nhà sản xuất thiết bị, cơ quan quản lý, các y bác sĩ, trung tâm tái xử lý thiết bị nội soi cần chung sức để thay đổi điều này thông qua những hướng dẫn, nghiên cứu, giáo dục. Công nghệ mới trong khử trùng hoặc phương pháp chẩn đoán mới không sử dụng ống nội soi (như viên nang nội soi, sinh thiết “lỏng” trong chẩn đoán ung thư) cũng cần được phát triển.
Sơn Phạm – lược dịch
Tiếng Việt | Tiếng Anh |
Bán thiết yếu | Semi-critical |
Khử trùng | Disinfection |
Khử trùng mức cao | High-level disinfection |
Làm sạch | Cleaning |
Mầm bệnh | Pathogen |
Nội soi bàng quang | Cystoscope |
Nội soi đại tràng | Colonoscopy |
Nội soi ống tiêu hóa | Gastro-intestinal endoscopy |
Nội soi ống mềm | Flexible endoscope |
Nội soi tá tràng | Duodenoscope |
Tay khoan nha khoa | Dental handpiece |
Tiệt trùng | Sterilization |
Thiết yếu | Critical |
------------
GENESMART CO., LTD | Phân phối ủy quyền 10X Genomics, Altona, Biosigma, Hamilton, IT-IS (Novacyt), Norgen Biotek, Rainin tại Việt Nam.